Tiêu chí nào để phân biệt hàng Made in Việt Nam?

Luật sư Nguyễn Thanh Hà, Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh cho biết hiện nay chưa có quy định về tiêu chí để hàng hóa được ghi nhãn sản xuất tại Việt Nam.

 

-Hiện tại, người tiêu dùng có thể dựa vào đâu để phân biệt đâu là hàng có nguồn gốc xuất xứ từ Việt Nam thưa ông?

Xuất xứ hàng hóa là nước, nhóm nước, hoặc vùng lãnh thổ nơi sản xuất ra toàn bộ hàng hóa hoặc nơi thực hiện công đoạn chế biến cơ bản cuối cùng đối với hàng hóa trong trường hợp có nhiều nước, nhóm nước, hoặc vùng lãnh thổ tham gia vào quá trình sản xuất ra hàng hóa đó.

Nghị định 31/2018/NĐ-CP về hướng dẫn Luật Quản lý ngoại thương về xuất xứ hàng hóa là căn cứ để xác định “hàng hóa có xuất xứ Việt Nam”, được cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O) hoặc chứng từ tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa của Việt Nam nhằm hưởng ưu đãi thuế quan hoặc phi thuế quan khi xuất khẩu sang thị trường mà Việt Nam có cam kết quốc tế.

Hiện tại, khái niệm “hàng hóa Việt Nam” có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau:

Thứ nhất, hàng hóa có xuất xứ Việt Nam để hưởng ưu đãi thuế quan theo cam kết hội nhập kinh tế quốc tế hoặc;

Thứ hai, hàng hóa có công đoạn sản xuất tại Việt Nam hoặc;

Thứ ba, hàng hóa có thương hiệu của Việt Nam

Nghị định số 43/2017/NĐ-CP quy định mọi tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa tại Việt Nam hoặc nhập khẩu hàng hóa đều phải ghi nhãn cho hàng hóa (trừ một số trường hợp đặc biệt).

Điều 10 Nghị định 43 ghi rõ nhãn hàng hóa bắt buộc phải thể hiện các nội dung gồm: tên hàng hóa; tên và địa chỉ của tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm về hàng hóa; xuất xứ hàng hóa và các nội dung khác tùy theo tính chất của mỗi loại hàng hóa.

Điều 15 Nghị định 43 yêu cầu tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu tự xác định và tự ghi xuất xứ đối với hàng hóa của mình, bảo đảm trung thực, chính xác, tuân thủ các quy định của pháp luật về xuất xứ hàng hóa hoặc các hiệp định mà Việt Nam đã tham gia hoặc ký kết.

Tuy nhiên, xác định xuất xứ hàng hóa theo nguyên tắc nào, quy tắc nào thì đến nay chưa có hướng dẫn rõ ràng.

Đã có Thông tư 05/2018/TT-BCT quy định thế nào được coi là xuất xứ Việt Nam. Tuy nhiên, Thông tư này chỉ áp dụng cho hàng hóa xuất khẩu ra khỏi Việt Nam. Chưa có một quy định nào lấy các tiêu chí của Thông tư 05 để coi đó là “hàng Việt Nam” hay hàng “Sản xuất tại Việt Nam”.

Như vậy, hiện Việt Nam chưa có quy định về tiêu chí để hàng hóa được ghi nhãn sản xuất tại Việt Nam nên người tiêu dùng trong nước không có căn cứ để phân biệt thế nào là hàng “Made in Viet Nam” và họ đang sử dụng hàng “Made in Viet Nam” trên cơ sở tự nhận biết hoặc tin tưởng vào những nhãn hàng không được kiểm chứng.

Do chưa có quy định rõ ràng về tỷ lệ sản xuất, chế biến ở Việt Nam như thế nào, chiếm bao nhiêu phần trăm trong giá trị sản phẩm nên doanh nghiệp cũng như cơ quan quản lý nhà nước sẽ rất lúng túng khi không biết phân định một sản phẩm có phải là “hàng Việt Nam” hay “Sản xuất tại Việt Nam”.

Việc thiếu quy định cụ thể về hàng hóa Made in Vietnam có thể gây tổn hại đến uy tín quốc gia, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam tham gia CPTPP.

-Việc này sẽ ảnh hưởng như thế nào tới việc xác định nguồn gốc xuất xứ hàng hóa, thưa ông?

Việc xác định rõ ràng sản phẩm sản xuất tại Việt Nam (Made in Vietnam) đặc biệt quan trọng trong bối cảnh hiện nay khi chúng ta đã tham gia vào CPTPP cũng như hàng loạt các FTA thế hệ mới.

Nếu làm không đúng, Việt Nam sẽ bị đánh giá là để cho các doanh nghiệp lạm dụng nguồn gốc của quốc gia trong khi nguồn gốc Việt Nam đang được hưởng ưu đãi thuế trong nội khối CPTPP.

Khi thị trường Việt Nam bị đánh giá là “có vấn đề” thì bất cứ một lô hàng nào xuất đi sẽ đều bị kiểm soát hay đi vào luồng đỏ. Điều này không chỉ tổn hại đến doanh nghiệp mà còn tổn hại đến uy tín quốc gia.

-Đối với vụ việc cụ thể của Asanzo thì sao thưa ông? Dù chưa có kết luận cuối cùng nhưng vụ việc lần này cũng ảnh hưởng lớn đến hình ảnh hàng Việt trong mắt người tiêu dùng. Vậy trong bối cảnh hội nhập, doanh nghiệp phải làm gì để bảo vệ giá trị thương hiệu Việt?

Thương hiệu Made in Vietnam đang được người tiêu dùng trong và ngoài nước tin tưởng và đánh giá cao về chất lượng và giá cả, không thể vì một lý do là che dấu nguồn gốc xuất xứ mà ảnh hưởng tới thương hiệu.

Liên quan tới vụ việc của thương hiệu Asanzo, tôi thấy rằng, hiện nay, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đều có hợp đồng gia công hoặc OEM từ Trung Quốc, sau đó nhập và bán lại Việt Nam, nhưng do nắm tâm lý khách hàng, không muốn dùng hàng Trung Quốc mà nhiều doanh nghiệp không muốn ghi chữ Made in China, điều này vô tình làm ảnh hưởng tới niềm tin của người tiêu dùng đối với hàng hóa.

Đối với doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, chúng ta cần trung thực trong việc ghi rõ nguồn gốc xuất xứ của hàng hóa, không nên vì tâm lý khách hàng mà ảnh hưởng tới uy tín của cả doanh nghiệp và cộng đồng kinh doanh. Đặc biệt, trong bối cảnh cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung đang ngày càng căng thẳng, nếu chúng ta không trung thực về nguồn gốc, có thể chúng ta còn bị hứng chịu trừng phạt thương mại.

– Xin cảm ơn ông!

Theo Huyền Trang/ Enternews

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Bài cùng chuyên mục