Giữ gìn nghề truyền thống

Cùng với việc giữ gìn những làn điệu dân ca, hát then, đàn tính, bà con các dân tộc thiểu số còn bền bỉ giữ gìn những nghề truyền thống. Trong số này, nghề làm giấy bản ở Cao Bằng được bà con người Tày, người Nùng gìn giữ, phát triển.

Thời điểm năm 2012 – 2013, nhận thấy nguy cơ mai một nghề truyền thống làm giấy bản ở Lũng Quang, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh Cao Bằng đã đầu tư hỗ trợ xóm bảo tồn và phát triển nghề truyền thống với số tiền 70 triệu đồng cho các hộ nghèo tại xóm; trong đó, mỗi hộ được 10 triệu đồng để xây lò dán khô, bể múc làm giấy. Cùng với sự cố gắng, kiên trì của bà con nên nghề giấy bản Lũng Quang đã từng bước vươn lên, mang lại cuộc sống ấm no cho bà con.

Theo người dân làm nghề giấy bản ở Lũng Quang, trước đây khi giấy bản làm ra không được nhiều người mua nên không làm một thời gian, chỉ trông chờ vào ruộng nương, cuộc sống rất khó khăn. Từ ngày được hỗ trợ vật chất làm bể và xây lò dán giấy, nhiều gia đình quay trở lại tiếp tục làm giấy, cuộc sống thường nhật cũng bớt khó khăn hơn.

Đối với bà con vùng cao, giấy bản được dùng chủ yếu cho đời sống tâm linh, thường được dùng vào dịp cúng lễ, nhất là dịp Tết hàng năm. Giấy bản có màu vàng nhạt, dai, thoang thoảng mùi thơm. Ngoài dùng để cắt giấy tiền, vàng hương, giấy bản còn dùng để dán bàn thờ, trang trí trong nhà, dùng để viết chữ Nho, chữ Hán, bởi giấy dai và thấm mực, chữ viết trên giấy bản không phai.

Giống như cách người Nùng làm giấy bản ở xóm Dìa trên, người Tày ở xóm Lũng Quang cũng dùng vỏ cây dưỡng (tiếng Tày là mạy sla), thường mọc tự nhiên trên đồi, núi cao làm nguyên liệu chính. Vào tháng 2, 3, 6, 7 bà con thường đi bóc vỏ cây vì thời điểm này cây dễ bóc vỏ nhất. Sau khi bóc lấy phần vỏ, bà con mang về nhà lại tước vỏ đen một lần nữa, đem ngâm vôi trong khoảng 12 tiếng.

Tuy nhiên, quá trình để ra được một tờ giấy bản còn trải qua rất nhiều công đoạn khác nữa. Sau khi ngâm vôi, phần vỏ này được rửa qua nước rồi đun lên khoảng 3 tiếng, sau đó ngâm nước khoảng 2 ngày. Tiếp đó, các thanh niên trẻ khỏe dùng gậy đập cho thật nát rồi đem xuống bể khuấy đều sẽ được một loại nước màu vàng nhạt, đặc sánh, trong quá trình khuấy đem trộn cùng cây dây trơn lấy trên rừng để khi cho giấy vào khuôn không bị dính, tạo thành một sản phẩm giấy ở dạng ướt. Giấy được ép nước và rải lên 2 mặt lò được đun lửa nhỏ đủ nhiệt độ khoảng gần 1 tiếng giấy sẽ khô, cuối cùng sẽ được một sản phẩm giấy bản có màu vàng nhạt, có độ mỏng vừa phải và dai. Trung bình một mẻ giấy bản tốn khoảng 30 – 40 kg nguyên liệu, làm ra được từ 400 – 500 tờ.

Với cách làm thủ công truyền thống, giấy bản của người Tày, người Nùng để được rất lâu, nếu bảo quản tốt giấy bản có thể để được vài chục năm. Vì vậy, đồng bào dân tộc rất ưa thích và nó phù hợp trong các nghi lễ truyền thống của dân tộc. Do đó, giấy bản còn mang giá trị tôn nghiêm trong các phong tục văn hoá, tín ngưỡng của đồng bào dân tộc.

Một điều đáng mừng là đến nay, giấy bản do bà con dân tộc Tày, Nùng làm ra không chỉ phục vụ nhu cầu trong tỉnh Cao Bằng mà đã được mở rộng ra một số địa phương khác thông qua các thương lái làm trung gian.

NguồnAnh Tuấn/ Thời báo ngân hàng
Bài cùng chuyên mục